Trong tháng 11, XK các sản phẩm chủ lực bắt đầu tăng chậm lại hoặc giảm. Trong đó, XK tôm sau khi tăng 25% trong tháng 10 với 421 triệu USD, đã giảm xuống còn 340 triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái. XK cá tra vẫn ổn định mức tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái. XK cá ngừ vẫn tăng mạnh 16% so với cùng kỳ và duy trì ổn định ở mức trên 53 triệu USD như 2 tháng trước. Trong khi đó, XK mực bạch tuộc và các mặt hàng hải sản khác hoặc tăng trưởng ít hơn so với tháng trước hoặc có xu hướng sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái. XK cá biển sau khi tăng 22% trong tháng 10 đã tăng chậm lại với 13% trong tháng 11, XK mực, bạch tuộc đã giảm 7,6% sau khi tăng 44% trong tháng 10.
XK tôm tính đến hết tháng 11 ước đạt gần 3,5 tỷ USD, tăng gần 22% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó tôm chân trắng ước đạt 2,3 tỷ USD, tăng 28%, tôm sú ước đạt 802 triệu USD, giảm 5,5%. Dự báo XK tôm cả năm 2017 sẽ đạt khoảng 3,8 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2016, trong đó tôm chân trắng khoảng 2,5 tỷ USD, tôm sú đạt khoảng 874 triệu USD.
XK cá tra trong 11 tháng qua đạt 1,6 tỷ USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm ngoái và dự báo sẽ cán đích với gần 1,8 tỷ USD, tăng 4% so với năm 2016.
XK cá ngừ tính đến hết tháng 11 đạt 541 triệu USD, tăng 19% và dự báo sẽ đạt gần 600 triệu USD trong cả năm 2017, tăng 18%. XK mực, bạch tuộc đã đạt tới 565 triệu USD, tăng 48%, dự báo sẽ cán đích với trên 600 triệu USD, tăng 37% so với năm 2016.
XK sang các thị trường chủ lực cũng có xu hướng tăng chậm lại hoặc giảm nhẹ. Trong đó, XK sang EU có dấu hiệu chững lại rất rõ rệt: sau khi tăng mạnh gần 38% trong tháng 10, đã hạ mức tăng xuống còn 28% trong tháng 11. XK sang Mỹ và Nhật Bản giảm lần lượt là 1,3% và 6,4% trong tháng 10. Trong khi XK sang các thị trường khác như Trung Quốc, ASEAN, Hàn Quốc cũng tăng trưởng thấp hơn so với tháng trước. Dự báo XK sang EU sẽ tiếp tục giảm tăng trưởng trong tháng 12 và những tháng tới sau khi EU phạt thẻ vàng IUU cảnh báo đối với thủy sản khai thác của Việt Nam.
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, T1-11/2017 (triệu USD) |
Sản phẩm | T11/2017 | % tăng, giảm | T1-11/2017 | % tăng, giảm | Thị trường | T11/2017 | % tăng, giảm | T1-11/2017 | % tăng, giảm |
Tôm các loại | 340,316 | +16,8 | 3.494,022 | +21,6 | EU | 145,068 | +27,8 | 1.360,965 | +21,6 |
trong đó: Tôm chân trắng | 236,366 | +25,8 | 2.288,800 | +27,9 | Mỹ | 116,294 | -1,3 | 1.303,584 | -2,4 |
- Tôm sú | 67,378 | -12,7 | 801,790 | -5,5 | Nhật Bản | 103,216 | -6,4 | 1.175,509 | +20,1 |
Cá tra | 155,252 | +3,0 | 1.622,461 | +5,4 | TQ và HK | 104,244 | +39,4 | 1.164,067 | +52,8 |
Cá ngừ | 53,644 | +15,9 | 541,126 | +18,7 | Hàn Quốc | 76,886 | +28,5 | 705,771 | +27,9 |
trong đó: Cá ngừ mã HS 16 | 28,168 | +11,8 | 248,844 | +23,7 | ASEAN | 53,592 | -2,1 | 551,726 | +14,6 |
Cá ngừ mã HS 03 | 25,474 | +20,8 | 292,281 | +14,9 | Canada | 15,290 | -15,2 | 203,021 | -45,2 |
Cá các loại khác | 118,094 | +13,3 | 1.202,064 | +17,0 | Australia | 19,346 | +4,4 | 164,813 | -3,5 |
Nhuyễn thể | 52,084 | -7,2 | 657,576 | +43,7 | Brazil | 7,252 | +56,5 | 93,244 | +63,5 |
trong đó: Mực và bạch tuộc | 45,952 | -7,6 | 565,158 | +47,8 | Nga | 13,852 | +10,4 | 94,617 | +3,6 |
Nhuyễn thể hai mảnh vỏ | 6,080 | -3,9 | 90,393 | +23,5 | Các TT khác | 77,990 | +2,7 | 805,995 | +7,1 |
Cua, ghẹ & Giáp xác khác | 13,642 | +14,9 | 106,063 | -9,8 | TỔNG CỘNG | 733,034 | +11,0 | 7.623,314 | +17,8 |
TỔNG CỘNG | 733,034 | +11,0 | 7.623,314 | +17,8 | |